Thursday, November 16, 2023
Wednesday, November 15, 2023
Gió đã đổi chiều? Câu chuyện 48 năm sau…
Gió đã đổi chiều? Câu chuyện 48 năm sau…
Cách đây 48 năm, trên chiến hạm chỉ huy Blue Ridge cùng với 30 chục chiến hạm đủ loại của hạm đội 7 đang đậu ở ngoài khơi bờ biển VN, cách Vũng Tàu khoảng 30 dặm vào lúc miền Nam đang hấp hối.
Họ đang chờ đợi để đón lính Mỹ và người Việt từ đất liền. Sứ mạng lần này không giống với 21 năm về trước tại vịnh Hạ Long.
Trên phòng chỉ huy của viên đô đốc Hạm đội thứ bảy, người ta thấy tề tựu đông đủ các ký giả nhà báo Mỹ đã từng có mặt trên các chiến trường VN như Stanley Karnov, David Halberstam, Neil Sheehan, John Kenneth Galbraith và nhiều người khác v.v… Dầu vậy được biết còn 125 người nhà báo trong số họ, đủ quốc tịch tình nguyện ở lại để chứng kiến cơn hấp hối của miền Nam Việt Nam.
Bên cạnh đó còn có phụ tá Trùm mật vụ là Frank Snepp đã từ Đài Loan đến đây được vài giờ sau khi hộ tống ông cựu tổng thống NVT ra đi trước đó mấy ngày. F. Snepp đến đây để đón tiếp một nhân vật quan trọng nhất- đại diện cho nước Mỹ- trong giờ phút này:
Đó là đại sứ Martin. Ông là người Mỹ cuối cùng rời VN mà trên tay chỉ ẵm theo một gói nhỏ: Đó là lá cờ nước Mỹ. Lá cờ đã được cuốn lên có nghĩa là nước Mỹ đã không còn ở đó nữa.
Ngay khi vừa đặt chân lên boong tàu vào lúc 2 giờ 47, giờ Sàigòn, ông đại sứ nhận được một điện tín chúc mừng của H.Kissinger với nội dung như sau: Với lời khen ngợi nồng nhiệt vì ông đã chu toàn toàn trách nhiệm. Nước Mỹ đến như thế nào thì lúc ra đi cũng như thế!!!
Nhìn từ trên boong tàu, các ký giả ngoại quốc đã thấy hàng ngàn những chiếc thuyền nhấp nhô như lá tre trôi trên biển. Đó là những thuyền đủ loại, đủ cỡ của những người Việt Nam đầu tiên bỏ chạy Cộng Sản. Họ là ai, số phận họ sẽ ra sao sau này? Chẳng ai trong số những ký giả trên và ngay cả những người ngồi trên những chiếc thuyền đó có thể tiên đoán đuợc điều gì.
Chỉ biết bỏ chạy đã. Chữ bỏ của chạy lấy người diễn tả đúng trong hoàn cảnh như thế này. Số phận họ ra sao không ai dám nghĩ tới, ngay cả đối với kẻ lạc quan nhất. Và đã có hơn 100.000 ngàn người trong số 250.000 ngàn người như thế đã được vớt đi định cư từ các chiến hạm của hạm đội 7. Cuộc ra đi thật bi tráng và tuyệt vọng đến tức tưởi.
Số phận họ có khác gì những con thuyền lênh đênh trên biển cả như những lá tre? Vâng những lá tre trên một đại dương mà lẽ sống chết đang chờ đợi họ. Bằng mọi giá họ đã ra đi mà nếu nay ngồi nghĩ lại, nhiều người không mường tượng nổi, họ đã có thể làm một điều như vậy. Nhưng cái “sô” vớt người trên biển trong tuần lễ cuối cùng của tháng tư và đầu tháng năm của người Mỹ cũng nói lên được cái gì:
Người Mỹ có thể làm được tất cả mọi việc một cách quy mô, ngay cả việc trốn chạy.
Nhận xét trên ăn khớp với điều mà Sir Robert Thompson, một chuyên gia về du kích dưới thời đệ nhất cộng hòa đưa ra lời tiên đoán trước đó vào ngày 23 tháng 3.1975 như sau: “Chúng ta sắp chứng kiến một cuộc đầu hàng chiến lược của Hoa Kỳ… Cuộc triệt thoái của người Mỹ khỏi Đông Dương là cuộc rút lui lớn nhất mà thế giới nhìn thấy từ khi Napoléon rút lui khỏi Moscow”.
Cuộc rút lui chiến lược ấy lôi kéo hàng trăm ngàn người Việt đi theo. Đó là những thuyền nhân Việt Nam đầu tiên chạy trốn làn gió chướng ở giờ thứ 25 từ trong đất liền đã thổi giạt họ ra biển..
Nhìn cảnh tượng đó,- cảnh tượng quá bi tráng- Stanley Karnov quay sang David Haberstam vừa cười vừa nói một cách mỉa mai: Công việc đang xảy ra trước mắt chúng ta đây, ngày hôm nay, chúng ta như những chứng nhân lịch sử vào những giờ phút cuối cùng của miền Nam, tôi nghĩ rằng trong đó có phần đóng góp của ông đấỵ!
Haberstam trả lời:
– Ông nói không sai, nhưng chỉ xin xác định cho rõ tôi chỉ là một ký giá làm việc cho quyền lợi nước Mỹ trên mảnh đất nghèo nàn và khốn khổ này. Mỗi người Mỹ đến đây hẳn mang theo mình một trách nhiệm, một sứ mệnh. Ông cũng đồng ý chứ, ông bạn của tôi? Chẳng hạn sứ mệnh của E. Lansdale và tôi- mặc dầu khác nhau- Nhưng tất cả, chúng ta đều làm vì nước Mỹ!!
– Như thế chắc là ông hãnh diện lắm.
– Đương nhiên, vì thế mà tôi có mặt ở đây trong giời phút này. Thôi, mời ông nhìn xem cảnh tượng dưới kia như màn chót của tấn bi kịch mà chúng ta đã dựng lên, tốn kém hằng trăm tỉ đô la.
Ông cứ tưởng tượng, trong số hằng trăm ngàn người dưới kia, ít ra cũng đến phân nửa ở tuổi vị thành niên. Cái hình ảnh ngưới lếch thếch, lang thang với từng đoàn người người nối đuôi nhau chạy trốn. Nếu tôi là họa sĩ, tôi chỉ vẽ lên cái cảnh này đũ diễn tả cái hiện trạng người Việt bỏ chạy. Và nếu cần nói một điều gì về lúc đó, về tâm trạng những người bỏ chạy thì có thể tóm tắt trong một câu: Tất cả đều hoang mang và không có một chút hy vọng gì về tương lai cả.
Những điều nhận xét của ký giả Haberstam sau này chỉ đúng có nữa phần đầu của câu chuyện.
Trong lúc đó, một sĩ quan đang trình với viên đô đốc chỉ huy chiến hạm 7 là có một vị tướng lãnh VN vừa đáp trực thăng của ông xuống boong tàu muốn được gặp. Vị đô đốc ra lệnh một cách gắt gỏng là: Ông nói với ông ta là tức khắc cởi bộ quân phục, lột bỏ lon của ông ấy ra và không được tuyên bố điều gì.
Đây là nước Mỹ trên biển chứ không phải là VNCH nữa.
Nhiều người sau này cho biết là viên tướng VN sau đó đã quỳ xuống, ngữa mặt lên trời và hét to lên: Ta thề với trời đất là ta sẽ trở về… Sau này được biết là ông đã giữ đúng lời thề, ông đã về.
Ông đã về theo cái cách mà Phạm Duy đã về!!
Vấn đề không phải là cởi bỏ bộ quân phục, cởi bỏ lon chậu vốn chỉ là cái bề ngoài. Câu chuyện viết về ông tướng có thể chỉ là một câu chuyện hư cấu. Vấn đề hôm nay, chính là nhiều người đã cởi bỏ cái danh xưng người Việt Quốc gia- cái biểu tượng của 48 năm nay -.
Và cứ như thế, không phải chỉ có đêm 29 tháng tư, mà tiếp câu chuyện đêm nay còn được tiếp diễn dài dài. Các con số thuyền nhân trốn khỏi Việt Nam càng gia tăng theo nhịp độ của những chính sách tàn bạo và trả thù của Hànội như “đi vùng kinh tế mới”. “học tập cải tạo”, “đánh tư sản, mại bản”, và cuối cùng “đi bán chính thức” nhằm vào giới Hoa Kiều.
Cứ mỗi một đợt chính sách lại thêm số người trốn ra đi khỏi nước.
Tổng cộng đã có gần hai triệu người trốn đi như thế. Đấy là còn chưa kể
những nguời để lại xác trên biển cả. Con số này chẳng ai biết là bao nhiêu? Và cũng chẳng ai có thì giờ tìm hiểu làm gì. Người chết thì đã chết.
Phải vậy không? Tiếc nuối rồi cũng khuây khoa, người Việt đến được xứ người đều quyết tâm cật lực để lo sinh kế, miếng ăn trước đã.
Tất cả những chính sách vừa kể trên là nhằm đánh vào những thành phần phản động, ngụy quân, ngụy quyền, tay sai Mỹ Ngụy. Nước nhà đã độc lập, nay bỏ nước ra đi thì không phản động thì còn là cái gì?
Nhưng chính thức thì có thể quả quyết rằng, nhà nước không cưỡng bức một ai phải bỏ xứ ra đi, và cũng không giữ một ai muốn ra ra nước ngoài sinh sống. Và cuối cùng để giữ thể diện, vừa loại bỏ được những thành phần “rác rưởi” muốn vứt, vừa kiếm được tiền hoặc để trao đổi trong thương thuyết, nhà nước Cộng Sản đã đồng ý với Liên Hiệp Quốc theo một chương trình “ra đi trong vòng trật tự” (Orderly Departure Program).
Thảm cảnh thuyền nhân trên biển vì thế đã giảm mức độ đi nhiều.
Tất cả câu chuyện, những thảm cảnh trên biển cả nay đảo ngược trở thành cái mà Michel Tauriac trong Hồ sơ đen của Cộng sản (Le dossier noir du Communisme) (*1) tóm tắt đầy đủ ý nghĩa tóm gọn trong một câu “Những con bò sữa thuyền nhân”.
Gió đã đổi chiều, gió chướng đã thổi họ ra biển, nay ngọn gió nào đã đưa họ về ?
Hình ảnh thật biểu tượng và gợi hình. Thật vậy, tất cả những con bò sữa thuyền nhân đã ra đi với hai bàn tay trắng để lại tiền bạc, nhà cửa ruộng vườn. Họ đã vắt được bao nhiêu sữa ở những con bò đó: Vắt lúc ra đi và nhất là vắt lúc trở về.
Nói chi đâu xa, tôi có căn nhà kiểu biệt thự ở số 224B Nguyễn Huỳnh Đức, quận Phú Nhuận. Căn nhà đó lúc mua là 5 triệu 300 ngàn trước 75. Tính theo trị giá vàng thời đó là khoảng 80 chục cây. Ra đi hợp pháp, có giấy tờ hẳn hoi, đi bằng cửa chính ra Tân Sơn Nhứt.
Giấy tờ xuất cảnh có thể chỉ là tấm giấy nhỏ viết tay nguệch ngoạc mấy chữ là: Nhà này do nhà nước quản lý!! Quản lý là trông coi, giữ dùm mà thật ra là tịch thu, là hôi của! Cả miền Nam, hai triệu người bỏ nước ra đi đã bị “quản lý” như thế. Nói toạc ra là đã “bị cạo lông” sạch như thế .
Việc ra đi theo diện người Hoa, bán chính thức hay việc quản lý nhà cửa đất đai, tài sản nằm trong tay Bộ nội vụ. Công việc bộ này là đảm trách và tổ chức nhằm “nhổ sạch lông” những bọn người lưu vong này. Kẻ dỗi hơi ngồi tính nhẩm chuyện nhổ sạch lông này đem lại cho nhà nước ít nhất là 25 tấn vàng. Tôi không tin vào con số, đúng sai khó đoán vì không biết tính toán. Nhưng ấn tượng trong đầu tôi là nhiều lắm, nhiều lắm lắm. Nhưng 25 tấn vàng vẫn là chuyện nhỏ. Vẫn là chuyện vắt đi. Vắt lại mới là quan trọng.
Và để gọi những thuyền nhân thì có nhiều tên gọi tùy theo thời kỳ: lúc đầu là bọn bán nước, bọn tay sai. Bán được bao nhiêu nhà nước thu cả. Cho mãi đến năm 1990 cũng còn có người gọi Việt kiều là những tên Việt gian. Nói chung họ coi đó là thành phần rác rưởi của chế độ cũ, muốn thải loại, muốn tống đi cho rảnh mặt. Và gọi một cách vô tội vạ nhất là người nước ngoài. Nghĩa là có sự phân biệt đối xử giữa người trong nước và ngoài nước. Sau này chữ được dùng hơn cả là Việt Kiều.
Rồi cứ như thế sau thời kỳ mở cửa mà số lượng người Việt về nước cũng như kiều hối đã bắt buộc mọi người phải thay đổi lại thế nhìn, thế bắn. Không ai có thể từ chối được những món quà, không phải 10 đô la trong ngày lễ Noel mà là 13 tỉ đô la. 13 tỉ đô la!
Không phải chỉ 13 tỉ đô mà nay nhiều lần hơn, chiếm tỉ trọng một phần ba ngân sách nhà nước. Nhờ đó tình nghĩa hàn gắn những vết sứt sẹo, những lời nói mà bình thường chỉ được coi như kẻ thù. Gió đã đổi chiều nên ngôn ngữ cũng đã đổi theo.
Những chiếc thảm đỏ đã trải dài từ phi trường Tân Sơn Nhứt đến Nội Bài chạy thẳng vào Bắc bộ Phủ. Thật là trớ trêu đến nực cười ra đi trốn chui, trổn nhủi, lúc trở về thảm đỏ dưới chân.
Những thành phần rác rưởi ta vừa nói ở trên, những con bò sữa đã vắt cạn chẳng bao lâu sau trở thành rác quý mà người ta có thể chế biến thành những sản phẩm, những vật liệu để xây dựng một nước Việt Nam hùng mạnh. Đã chẳng ai ngờ điều đó đã xảy ra.
Rác rưởi cứ thể đổi hình đổi dạng mà tính ra tiền bằng những sản phẩm mới.
Những anh thuyền chài có thể ra đi vỏn vẹn chiếc quần đùi nay chễm trệ ngồi Mercedes. Những mệnh phụ nói tiếng Mỹ oe oé mà nếu không có cuộc đổi đời này thì cùng lắm chỉ là những người đàn bà làm vợ, làm mẹ, là nội trợ bình thường trong gia đình.
Nhưng kể làm gì đến những chuyện nhỏ nhoi đó.
Đã có rất nhiều thay đổi mà không ai tiên đoán trước được- những thay đổi tràn đầy hy vọng như thế đối với giới người Việt di tản-nhất là nơi người trẻ.
Họ không còn là cô nữ sinh cười e lệ, hỏi không dám mở lời mà nay là những chuyên viên hàng đầu của xã hội Mỹ. Có những người trong bọn họ đã làm ra số vốn bạc tỷ. Có người trong bọn họ cùng với bạn đầu tư nửa tỷ đô la tại nơi mà trước đây được coi là thánh địa của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Củ Chi với những địa đạo, nơi tự hào về cuộc chiến thần thánh trong tương lai trở thành biểu tượng “thung lũng của ngành tin học”.
Đã chẳng ai từ hai phía, người trong nước cũng như người nước ngoài nhìn thấy được điều đó ngay từ đầu.
Chuyện kể ra như một giấc mơ hay như câu chuyện thần thoại.
Và cái kim chỉ đường cho người Việt tương lai là hãy nhìn vào giới trẻ đang lên. Họ chiếm đa phần. Tương lai thuộc về họ, đời sống thuộc về họ, cộng đồng VN là họ. Không phải do một thiểu số những người lớn tuổi như tôi. Những người bỏ nước ra đi đã chỉ nhớ cái phần đầu câu chuyện mà chưa thuộc hết phần cuối.
Đó là những người không biết kể chuyện và những câu chuyện kể càng ngày càng nhạt phèo như nước ốc. Thời của họ đã hết. Ngay cả Thời của Thánh thần hay Thiên đường mù của những kẻ bất đồng chính kiến cũng bị bỏ quên lãng.
Những người còn bám víu vào quá khứ có thể được coi là những người không thức thời? Nhưng nếu không bám víu vào đó thì họ còn gì là họ? Quá khứ là chính họ là cái làm nên bản thân họ. Họ bị coi như loài “củi mục” trong đám cây rừng đang xanh lá. Củi mục thì làm gì? Đốt làm củi cũng không xong.
Nhưng chắc hẳn nhiều người như tôi không nghĩ như thế. Bản thân tôi cũng thế- không chấp nhận được lối xếp loại ấy -.
Trong 48 năm qua, chúng ta- những người Việt di tản- đã không ngừng tranh đấu không ngơi nghỉ cho điều mà tôi gọi là trận chiến cho một biểu tượng, trận chiến cho một hình ảnh (bataille de l’image) là người Quốc Gia.
Bao nhiêu công sức đã bỏ vào đấy!! Bao nhiêu thời giờ còm cõi ngồi trơ trọi một mình trên bàn máy điện tử để viết!!
Mặc dầu thâm tín và phải nhìn nhận rằng quá khứ định hình và làm nên người Việt di tản thế hệ thứ nhất thì tương lai sẽ định hình thế hệ người việt thứ hai, thứ ba, nghĩa là con cháu chúng ta!!
Còn lại vấn đề kế thừa là vấn đề bi quan nhất của người Việt hiện nay!!
Nhưng cho dù bi quan đến đâu, cho dù vứt bỏ vấn đề chính tri, lịch sử xã hội qua một bên thì vẫn còn lại vấn đề nhân cách, vấn đề đạo lý con người. Và lúc ấy cho thấy rằng: Củi mục thì cũng vẫn là củi.
Người khác cho rằng nhìn cây thì thấy rừng, nhưng nhìn củi mục thì thấy gì?
Họ nghĩ rằng thà là như anh thuyền chài, thà là như chị X, Y nói tiếng Mỹ oe éo. Thà là như thế. Phải nhớ rằng cuộc ra đi bất hạnh đã trở thành đại hạnh cho chính mình, cho con cháu mình, cho cái nơi mình đi tới và cả cái nơi mà từ đó mình đã ra đi.
Tháng tư đen thật ra chính là tháng hy vọng!!
Hành lý quá khứ mang đi càng nhẹ thì họ về VN càng nhanh .
Hãy nhìn vào những con số để nhận ra câu chuyện thần thoại về người Việt di tản. Năm 1987, có 8 ngàn người về thăm quê hương, đến năm 1993 thì con số tăng lên 160 ngàn người, đến năm 2002 là 380 ngàn người. Con số tự nó nói lên điều gì rồi và người ta bắt đầu vỡ lẽ ra.
Bên cạnh đó, kiều hối đem lại một sốn tiền tươi là 2 tỷ 6 đôla trong năm 2003. Hãy làm một so sánh cho rõ. Năm 2003, Việt Nam xuất khẩu được 20 tỉ đôla, trừ vốn liếng cho sản xuất, lời ròng của 20 tỷ vị tất đã được 5 tỷ?
Có một điều, nhiều người vô tình quên là năm nay có 2 triệu lượt khách đến Việt Nam. Cứ giả dụ, mỗi người khách tiêu 2000 đô la đầu người. Số tiền thu được sẽ là bao nhiêu? Trong số 300.000 người Việt về thăm quê hương, cứ cho là vừa tiêu xài, vừa cho bà con họ hàng, ở từ hai tuần đến một tháng, mỗi người đổ đồng chi tiêu 4000 đô la cho một chuyến về thăm quê hương, cán cân ngân sách cũng như nền kinh tế Việt Nam đã được kích cầu lên không nhỏ.
Tiềm năng thật lớn. Tương lai cũng đầy hứa hẹn.
Đó là nền kinh tế sống nhờ trên những kỹ nghệ không khói.
10 năm nữa, dự đoán số khách du lịch là 10 triệu người-năm như Thái Lan hiện nay, với các đường bay thẳng Sàigòn-Mỹ, Sàigòn-Âu Châu. Chuyện đã xảy ra và chắc sẽ xảy ra. Lúc đó tiền đổ vào qua du lịch không phải là nhỏ nên hiện nay trên hầu hết 60 tỉnh thành của VN đều có khu du lịch đủ kiểu.
Điều đáng nói hơn nữa là nay có một số Việt Kiều về nước kinh doanh đầu tư với hàng trăm dự án được chấp nhận với số vốn lên đến trên một tỉ đô la..
Những Việt kiều như Nguyễn Chánh Khê với phát minh chế tạo thành công than Nano áp dụng vào việc sản xuất mực không phải là hiếm. Dự án khu khách sạn Vinpearl Resort- Spa, 5 sao, tại đảo Hòn Tre, Nhatrang đã khánh thành với số tiền đầu tư là 500 tỉ đồng. Phần lớn các số tiền đầu tư này tập trung vào lĩnh vực công nghiệp, tin học, lắp ráp, du lịch.
Cũng vì thế, nhà nước đã chẳng tiếc lời gọi Việt Kiều là những người con của đất nước.
Những lời lẽ trân trọng mật ngọt đã hẳn là không thiếu. Gió chướng đã không còn nữa.
Gió đã đổi chiều, ngôn ngữ đổi chiều, giọng lưỡi đổi giọng. Không còn có chữ nghĩa làm đau lòng nhau nữa. Trên tất cả các sách báo, trên các trang nhà, không còn có thể tìm thấy bất cứ thứ chữ nào nói xa nói gần đến chế độ miền Nam trước đây nữa. Những chữ như bọn ngụy quân, ngụy quyền và bọn tay sai đã không tìm thấy trong tự điển của bộ chính trị nữa. Ngược lại không thiếu những chữ mật ngọt như “Tổ quốc Việt Nam, quê hương thân thiết luôn giang rộng vòng tay chào đón những người con xa xứ.”
“Nhà nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của người Việt nam định cư ở nước ngoài giữ gìn quan hệ gắn bó với quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước”.
Luật quốc tịch điều hai thì viết rõ ràng thế này: “Người Việt Nam ở nước ngoài là công dân Việt Nam” “Người Việt nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam.”
Nhà nước lại còn trích dẫn câu nói của ông Hồ mà không ai tự hỏi xem ông nói lúc nào và bao giờ: “Tổ quốc và chính phủ cũng luôn luôn nhớ thương đồng bào, như bố mẹ thương nhớ những người con đi vắng. Đất nước hòa bình..” – bác nói với kiều bào ở Thái lan về nước năm 1960.
Kiều bào năm 1960 thì không phải là người di tản!! Thật rõ chán.
Hình như người ta đã quên cái cảnh bồng bế xô đẩy nhau lên máy bay và bằng bất cứ giá nào phải đi bằng được. 48 năm sau, câu chuyện kể về thuyền nhân chỉ còn là dĩ vãng mà cả bên này bên kia đều đã quên hoặc cố tình quên.
Nhưng còn những người như tôi sẽ không quên. Never. Never!!!
Thật ra không hẳn là như vậy. Nhà nước chính quyền hoan hỉ nhận những đồng tiền Đôla từ mọi nơi gửi về cũng như người Việt mang tiền về nước. Mang tiền về thì được chứ đừng mang chữ về. Chữ hiểu theo nghĩa rất rộng là sách báo, tư tưởng, âm nhạc, nghệ thuật. Từ khi có nhà nước Cộng Sản đến nay.
Chữ vẫn là độc quyền tuyệt đối nằm trong tay đảng. Nó nằm trong một hệ thống khép kín: Chủ nghĩa hay ý thức hệ – bạo lực khủng bố – và một chính quyền toàn trị. (ideology, terror and totalitarian government).
Chẳng lạ gì, trước khi về VN, người ta thường khuyên có một điều duy nhất: anh muốn làm gì thì làm:
– chẳng hạn anh có thể cờ bạc, chơi bời đủ kiểu, tắm đủ kiểu, phòng trà đủ kiểu, âm nhạc đủ kiểu, cà phê đủ kiểu, gái đủ kiểu, sex đủ kiểu, ngủ trưa đủ kiểu, ngủ tối đủ kiểu, ăn đủ kiểu, vừa ăn vừa chơi đủ kiểu, đĩ điếm đủ kiểu, hối lộ đủ kiểu, lưu manh lường gạt đủ kiểu, gian trá đủ kiểu, buôn bán mánh mung đủ kiểu, làm giầu đủ kiểu, đầu cơ đủ kiểu, công an đủ kiểu, phường khóm đủ kiểu, công ty đủ kiểu, cơ quan đủ kiểu, chính quyền địa phương đủ kiểu, chính quyền trung ương đủ kiểu, luật pháp đủ kiểu, thằng ăn cắp xử thằng ăn cướp đủ kiểu và cuối cùng xã hội loạn đủ kiểu.
Ta có quyền đủ kiểu hết, miễn là đừng đụng đến chính trị.
Vì trên hết, vẫn có một nhà nước toàn trị ở trên tất cả những đủ kiểu đó. Trước khi lên máy bay về nước, còn dặn với theo: nhớ nhé đừng đụng đến chính trị.
Phải nhìn nhận rằng, sự suy đồi đạo đức xã hội ở VN đã đi quá xa đến mức nó xuống cấp, vượt xa những nước tư bản Phương Tây. Đến nỗi phải kêu lên một câu: Có nước nào như nước ấy không?
Phát triển kinh tế không đồng nhịp với cải tiến xã hội và đạo đức. Về Xã hội, chỉ nhìn giao thông đường phố Sàigòn, Hànội là đủ hiểu. Về đạo đức, chỉ nhìn thực trạng học đường ở VN là đủ hiểu.
Mặc dầu vậy, ngày nay, có nhiều bà con Việt Kiều tính về ở hẳn VN. Có người trong đám này về Việt Nam dưỡng già với xe hơi SUV.
Có những ông già lấy tiền xã hội của Mỹ về tậu nhà, tậu cửa, líu lưỡi khen ngọng và hãnh diện nói: mấy chục năm không sáng tác được, nay về ở VN nhờ đó mới hoàn thành được tác phẩm. Có ông Nhà văn “tiến bộ” nay trở thành thứ “Chim hót trong lồng”.
Tất cả đều thuộc loại người không biết ngượng, quên cái trận chiến biểu tượng, hình ảnh.
Trong vòng 10 năm nữa, khi xa lộ đông tây hoàn thành, khi 6 tuyến xe điện ngầm xây dựng xong, khi đường hầm Hải Vân nối liền Nam Bắc nay đã hoàn tất, thành phố Sàigòn sẽ thay mặt đổi tên chẳng còn ai nhận ra nó nữa.
Nay ở Sàigòn, đã có những khu nhà “Làng Việt Kiều “. Người ta dự trù có 4 khu như thế, với những biệt thự sang trọng, đủ tiện nghi như ở Mỹ, Canada. Người ta thấy những Việt Kiều lái những chiếc xe SUV, hay ngồi nhâm nhi ly rượu cocktail bên bờ sông Sàigòn. Những căn nhà có những bãi cỏ xanh, mái nhà mầu cam kiểu California, những hồ bơi với những cây dừa với những hàng chữ tiếng Anh Welcome.
Đây là, chẳng phải ai khác, mà là những người di tản, những rác rưởi 48 năm trước chạy trốn Cộng Sản, hoặc đã bị đi tù, đi cải tạo. Gió chướng đẩy họ ra đi, nay gió nào đẩy họ về?
Chẳng hạn, anh chàng Võ Q, kèm theo cái tên Larry, nay đã 65 tuổi, trước đây là một sĩ quan không quân, quân đội VNCH. Anh ta ta đã rời bỏ vùng Southern California cách đây 2 năm cùng với vợ, còn có tên cúng cơm là Linda để về ở đây. Anh ta khoe căn nhà với vẻ hãnh diện không cần dấu diếm với đồ dùng toàn bằng Inox, phòng tắm lớn có vòi tắm hơi, thiết trí theo kiểu Jacuzzi của Ý. Sàn nhà mầu hồng bóng lộn. Anh còn chỉ cho thấy và nói thêm: Không phải cẩm thạch đâu nhé, đá hoa cương thứ thiệt đấy. Thiệt là quá rẻ, còn rẻ hơn ở Hoa Kỳ rất nhiều. “Thiệt là Việt Kiều”.
Một anh khác tên Hoàng Tiến, chả bù cho lúc ra đi lếch thếch, lang thang, nay anh trở thành chủ nhà thầu đang có những kế hoạch xây cất nhà cho Việt Kiều với những dự án “thành phố xanh” (Green city).
Cái điều oái ăm đến quái gở là khi ở Mỹ, người ta tìm cách đặt tên Little Saigon, Phở Bắc, bánh mì Tân Định, bánh cuốn Đakao, Restaurant Hoài Hương để nhớ về; nay ở Việt Nam thì người ta lại muốn đặt tên cho những khu thương xá là “tiểu Cali”, “tiểu Fairfax” để nhớ đến. Và cứ như thế, sẽ có một số người Việt gốc Mỹ sống riêng biệt trong những tiểu quốc của họ bên cạnh những người Việt bản xứ.
Khi ở Mỹ thì họ nhớ Việt Nam, khi ở Việt Nam họ lại tiếc lối sống Mỹ. Họ trở thành người ngoại quốc trước mắt những người đồng loại của họ. Họ tưởng về quê thật, nhưng lại mang tâm trạng một thứ chủ nhân, cách biệt với dân bản xứ. Và điều rõ rệt là Hoàng Tiến đã bực tức về một căn nhà hàng xóm đã vứt những bao rác ra đường ngay cổng nhà anh ta, đã mở nhạc Karaoké tùy tiện ầm ĩ cả lên. Anh bực tức nói :
– Như thế không phải lối sống Mỹ, không biết tôn trọng luật pháp.
Như thế là thiếu văn minh. Khi ở Mỹ thì anh muốn bảo tồn văn hóa Việt, không muốn trở thành Melting pot hay Salát Mỹ. Anh bắt con đi học tiếng Việt. Về VN, đụng mở mồm là anh xổ tiếng Mỹ cho oai. Quả là về sống ở Việt Nam thì lại là câu chuyện khác.
Trong tương lai, Hoàng Tiến sẽ còn phải bực tức nhiều về những điều trái tai gai mắt: chẳng hạn một anh cán bộ phường cứ xồng xộc vào nhà chẳng điện thoại trước.
Riêng Nguyễn Anh, năm nay mới 35 tuổi về Việt Nam làm việc cho một công ty nước ngoài. Ra đi từ nhỏ, kể như không biết gì về Việt Nam, anh cũng không có ý ở hẳn VN. Nhưng anh cũng có một vài nỗi khổ vặt khác. Nguyễn Anh sững sờ khi làm một việc gì giúp người khác không nhận được một tiếng thanh kiu, thanh kiếc gì hết. Anh cũng khó chịu khi mọi người chen lấn không xếp hàng khi trả tiền. Nhất là các cô thiếu nữ trông khả ái, dịu hiền, nhưng cũng huých tay chân như ai.
Gần như mạnh ai nấy làm, mạnh ai nấy sống chen lấn chụp giựt. Nguyễn Anh có hơi buồn về con người Việt Nam vốn có tâm hồn, vốn thương người mà một tai nạn xe cộ xảy ra đến chết người mà mọi người dửng dưng.
Quả thực, tuy là người Việt Nam, nhưng anh lại không hiểu gì về người mình.
Lại nói đến giải trí, Nguyễn Anh không hiểu được là người Việt Nam “Xem thể thao” chứ không chơi thể thao. Mấy triệu người thức đêm, bỏ công ăn việc làm, bỏ học để dán mắt vào đài truyền hình theo dõi một trận đá banh. Thật là vô lý vì hại sức khỏe. Chỉ có 22 cầu thủ thực sự chơi thể thao, còn cả nước chỉ ngồi xem thể thao, chưa kể còn cá độ.
Hình như cái gì ở Việt Nam cũng có thể trở thành cờ bạc. Lại một điều nữa, Nguyễn Anh không hiểu được.
Nguyễn Anh thì chỉ thích đi đánh golf. Nhưng muốn chơi ngon, Nguyễn Anh phải lấy vé máy bay ra Phan Thiết chơi, vì ở đó có sân chơi nổi tiếng là đẹp. Ít ra thì điều đó cũng làm Nguyễn Anh vui lòng.
Nhưng có người thấy như thế thì lấy làm kỳ cục. Họ chép miệng, tội tình gì mà phải cất công như thể để chơi Golf. Chơi đâu chả được. Phí tiền nữa. Nguyễn Anh không đáp lại, vì anh có cái lý của anh.
Đúng là anh thấy người Việt mê đá banh một cách kỳ cục. Nhưng ngược lại, họ cũng thấy anh không giống ai.
Còn về thanh niên, thiếu nữ thì chửi thề không biết ngượng mồm, nhất là thanh niên, thiếu nữ gốc Bắc. Mở mồm ra là “địt”. Sáng ra, chỉ hỏi giá cả món hàng đã bị một người con gái xinh đẹp phạng cho một câu.
Nói gì thì nói, nghĩ gì thì nghĩ. Thời gian sẽ xóa nhòa tất cả vết tích cũ: thời gian cứ trôi qua, nhiệt tình chống Cộng giảm xuống và tình hoài hương lại trỗi dậy.
Những vị lãnh đạo trong nước thì nghĩ rằng: Nhân dân muốn quên hết mọi thứ. Những người này hiện ở đây vì đất này là tổ quốc của họ. Chúng ta không có quyền trách mắng họ. Chúng ta tiếp đón họ. Chúng ta không muốn để Việt kiều gây chiến tranh lần nữa.
Tự nhiên bật ra một câu hỏi: Nhưng nhân dân là ai mới được cơ chứ ?
Nhưng tôi cho rằng lịch sự trớ trêu có những bài học không bao giờ chúng ta học hết được.
Chiếc soái hạm Blue Ridge 37 năm trước trong vai trò chở binh lính Mỹ và người tỵ nạn VN ra khỏi miền Nam thì hiện nay đang đậu ở bãi Tân Sa, Hải Phòng!! Đố ai biết được ngày hôm nay vai trò của Blue Ridge đến VN với mục đích gì? 37 năm trước và 37 năm sau có điều gì khác biệt?
Gió đã đổi chiều. Gió nữa lên …
(1*) Cuốn sách Le livre noir du Communisme, Hắc thư về chủ nghĩa cộng sản, do nhà Robert Laffont xuất bản, Paris, năm 1997, 846 trang do Stephane Courtois cầm đầu với 11 tác giả.
SOURCE:
https://www.danchimviet.info/gio-da-doi-chieu-cau-chuyen-48-nam-sau/11/2023/30032/
Thursday, November 9, 2023
🍂 Autumn_Mùa Thu_L'automne **~** 🍂 Mùa thu Paris 🍁
Dưới trăng mờ thổn thức?
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ?
Em không nghe rừng thu,
Lá thu kêu xào xạc,
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp lên lá vàng khô?
| Lưu Trọng Lư |
-VIDEO:Yves Montand-Les feuilles mortes/Dead leaves
-VIEW :Automne au jardin du Luxembourg_Paris
TIN BUỒN: LÁ VÀNG "THI SĨ CUNG TRẦM TƯỞNG" VÙA BAY THEO GIÓ "MÙA THU PARIS"
Tin Buồn: Lá Vàng “Thi Sĩ Cung Trầm Tưởng” Vừa Bay Theo Gió “Mùa Thu Paris!”

Tin Buồn
Chúng tôi vừa nhận được tin:
Trung Tá Không Quân, Thi Sĩ CungTrầmTưởng tên thật là Cung Thức Cần,
đã vĩnh viễn giã từ thân bằng, quyến thuộc, đồng đội và những người yêu thơ, yêu nhạc của Ông....
vào ngày Chủ Nhật, 9 tháng 10 năm 2022, tại Minnesota.
Hưởng Thượng Thọ 90 tuổi...

Tin Buồn: Lá Vàng “Thi Sĩ Cung Trầm Tưởng” Vừa Bay Theo Gió “Mùa Thu Paris!” (Một Trong Những Thi Nhạc Phẩm Nổi Tiếng Nhất Về Mùa Thu!)
Chúng tôi vừa nhận được tin buồn, từ Niên Trưởng KQ Võ Ý: Xin được thông báo đến Quý Nt, Quý Ch KQ và Quý Độc Giả, Thính Giả, yêu thơ, yêu nhạc:
Thi Sĩ KQ CUNG TRẦM TƯỞNG
Ông là tác giả “Một Hành Trình Thơ – 1948-2018” và nhiều người biết Ông nhất, qua bài thơ “Mùa Thu Paris” đã được Nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc, vừa từ biệt dương thế hôm nay! Chủ Nhật, ngày 9 tháng 10 năm 2022, lúc 4 giờ 27 chiều, giờ địa phương.
Được biết, cách đây hơn tháng, Ông bị té sưng mặt mày, phải nhập viện. Hơn tuần qua, Ông phải mổ bàng quang. Ca mổ bình an. Nhưng sau đó, Ông bị viêm phế quản, phải mang ống thở, liệt não. Sáng nay, gia đình quyết định rút ống! Tin buồn này, làm biết bao nhiêu Chiến Hữu, Bạn bè, những người thương mến, chỉ biết nhìn lá vàng rơi, trong không khí se lạnh Mùa Thu, hát lại lời thơ, tiễn Thi Sĩ bay theo gió về…Trời!
“Lên xe tiễn Em (Ông) đi
Trời mùa thu Paris
Chưa bao giờ buồn thế!…”

Ít Nét Tiểu Sử Về Thi Sĩ Cung Trầm Tưởng
Cung Trầm Tưởng (sinh 1932), tên thật là Cung Thức Cần, là một nhà thơ hiện đại Việt Nam, cuối đời định cư ở Hoa Kỳ.
Ông sinh ngày 28 tháng 2 năm 1932 tại Hà Nội. Năm 15 tuổi (1947), ông bắt đầu làm thơ, và có tập thơ đầu tay tên là Sóng Đầu Dòng.
Năm 1949, ông rời Hà Nội vào Sài Gòn, học tiếp trung học tại trường Chasseloup Laubat (Sau có tên là trường Trung học phổ thông Lê Quý Đôn, Sài Gòn)
Năm 1952, sau một năm học đại học, Ông sang Pháp du học, tại Trường Kỹ sư không quân ở Salon-de-Provence.
Năm 1957, ông tốt nghiệp trở về nước, phục vụ trong Quân chủng Không Quân của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Trong năm này, hai bài thơ của ông là "Mùa thu Paris" và "Vô đề" (thơ trường thiên), xuất hiện trong tuyển tập Đất Đứng, của nhóm Quan Điểm (gồm Mặc Đỗ, Vũ Khắc Khoan, Nghiêm Xuân Hồng), và đã làm người đọc, thích thú, chú ý nhất, nổi nhất trong thời gian này!
Năm 1958, ông đứng ra chủ trương tờ Văn Nghệ Mới và cộng tác thường xuyên cho các tạp chí: Sáng Tạo, Hiện Đại, Nghệ thuật, Văn, Khởi hành...
Trong khoảng thời gian này, Nhạc sĩ Phạm Duy đã phổ nhạc một số bài thơ của Ông, đó là những bài "Mùa thu Paris", "Chưa bao giờ buồn thế", "Bên ni bên nớ", "Khoác kín", "Kiếp sau", "Về đây"...tổng cộng trong 13 bài thơ trong tập Tình Ca của Ông, thì 6 bài Phạm Duy chọn phổ nhạc! Đủ thấy thơ Ông, mọi người yêu thích như thế nào!
Năm 1962, ông sang Hoa Kỳ học về khí tượng, đậu Tiến sĩ khí tượng học tại Đại học Saint Louis. Sau đó, ông trở về Sài Gòn, tiếp tục phục vụ trong Quân chủng Không Quân, với cấp bực cuối cùng là Trung tá (1975). Dưới chế độ cộng sản, ông bị bắt đưa đi cải tạo 10 năm! trong 8 trại giam và thả về với thêm 3 năm quản chế.
Năm 1993, ông sang Hoa Kỳ định cư, tại Minnesota. (Xứ 10 ngàn cái hồ!)
Tác phẩm của Cung Trầm Tưởng đã in:
•Tình ca (Nhà xuất bản. Công đàn, Sài Gòn, 1959)
•Lục bát Cung Trầm Tưởng (Nhà xuất bản. Con đuông, Sài Gòn, 1970)
•Lời viết hai tay (Nhà xuất bản. Imn, Bonn, 1994; thơ tù cải tạo)
•Bài ca níu quan tài (tác giả tự xuất bản, Minnesota, Hoa Kỳ, 2001; thơ tù cải tạo)
•Một hành trình thơ (Nhà xuất bản Tiếng Quê Hương, Falls Church, Virginia, Hoa Kỳ, 2012)

Thi Sĩ Cung Trầm Tưởng Cũng Đã Một Lần Ra Mắt Thơ Tại San Jose.
Tối thứ Sáu 18/6/99, vào lúc 6:30 pm tại Trung Tâm Văn Hoá 2296 Quimby Road, góc đường Capitol Expressway, nhà thơ Cung Trầm Tưởng đã hội ngộ cùng giới yêu thơ thung lũng hoa vàng với tác phẩm mới của ông là Thơ Viết Hai Tay.
Đây là lần đầu ông ra mắt tại San Jose. Hai bài thơ của ông là Tiễn Em và Mùa Thu Paris đã được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc thập niên 60, tạo tên tuổi vang lừng và bài hát đó bây giờ vẫn còn nhiều người thưởng thức. Bối cảnh nước ngoài hoa lệ với tuyết rơi mùa đông, lá vàng mùa thu, một tình yêu lãng mạn thời tuổi trẻ pha chút gì văn minh của thủ đô Paris nước Pháp, đã gây xao xuyến cho những người thưởng thức văn nghệ ở trong nước thời đó.
Sau 1975, thi sĩ bị ở tù Cộng Sản gần cả chục năm và theo lời của bạn bè chung tù, thì quan điểm làm thơ của Ông đã chuyển biến từ hoa mộng qua tranh đấu! chống cộng! Định cư ở tiểu bang Minnesota được mấy năm, ông vẫn tiếp tục sáng tác và cuối tuần này khách văn nghệ, sẽ nghe những vần thơ mới của ông. Một số thơ Cung Trầm Tưởng phổ nhạc cũng được hát trong buổi văn nghệ đặc biệt này.
Kết:
Theo nhà nghiên cứu T. Khuê, thì thơ Cung Trầm Tưởng thường có giọng buồn, mang mác! Nhưng là giọng buồn nguyên thủy, gợi nỗi cô đơn hiện sinh, khi con người nhận thức lại chính mình!

(Bài đọc thêm)
Thi sĩ Cung Trầm Tưởng và hoàn cảnh đặc biệt sáng tác, những bài thơ được phổ thành ca khúc nổi tiếng: Tiễn Em, Kiếp Sau, Mùa Thu Paris!

Cung Trầm Tưởng là một nhà thơ rất quen thuộc từ đầu thập niên 1960 ở Sài Gòn với thể loại thơ lãng mạn, tên tuổi ông nhanh chóng được giới thanh niên trí thức thời bấy giờ biết đến kể khi ông trở lại Sài Gòn sau khi đi du học ở Pháp. Nhắc đến Cung Trầm Tưởng thời đó, mọi người đều biết đến những bài thơ được Phạm Duy phổ nhạc là Mùa Thu Paris, Kiếp Sau, hoặc bài thơ Chưa Bao Giờ Buồn Thế được phổ thành bài hát mang tên Tiễn Em với các hình ảnh đậm chất thơ: “Ga Lyon đèn vàng” và “Lên xe tiễn em đi chưa bao giờ buồn thế…” Ngay cái tên của nhà thơ cũng đã ấn tượng đối với nhiều người vì chất văn học rất đậm trong mỗi chữ: Cung Trầm Tưởng. Nhà thơ Cung Trầm Tưởng Nhà thơ Cung Trầm Tưởng tên thật là Cung Thức Cần, sinh ngày 28 tháng 2 năm 1932 tại Hà Nội. Năm 15 tuổi (1947), ông bắt đầu làm thơ, và có tập thơ đầu tay tên là “Sóng Đầu Dòng”. Năm 1949, ông rời Hà Nội vào Sài Gòn, học tiếp trung học tại trường Chasseloup Laubat (nay là trường Lê Quý Đôn). Năm 1952, sau một năm học đại học, ông sang Pháp du học, tốt nghiệp Kỹ Sư tại Trường Võ Bị Không Quân ở Salon-de-Provence. Đến năm 1957 thì trở lại Sài Gòn và phục vụ trong binh chủng không quân trong được 23 năm. Tại Sài Gòn, Cung Trầm Tưởng gặp nhạc sĩ Phạm Duy, rồi họ trở thành những người bạn thân thiết. Phạm Duy từng chia sẻ như sau: “Cung Trầm Tưởng, một thi sĩ trẻ vừa ở Paris về, đưa cho tôi mấy bài thơ để phổ nhạc trong đó có hai bài nói về mùa Thu và mùa Ðông Paris. So với nhạc tình thời đó, hai bài này rất mới lạ cho nên được các nữ ca sĩ trẻ đẹp như Thanh Thúy, Thu Hương, Lệ Thanh trình bày hằng đêm tại các phòng trà. Các đài radio, các nhà xuất bản, các hãng làm đĩa hát đua nhau phổ biến những bài thơ phổ nhạc này của chúng tôi. Nó trở thành những tình khúc của một thời. Thời kỳ đẹp nhất của người Việt trong thế kỷ này chăng?” Thi sĩ Cung Trầm Tưởng, nhạc sĩ Phạm Duy và họa sĩ Ngy Cao Uyên năm 1959. Ảnh: huyvespa Trong số những bài thơ được phổ nhạc của Cung Trầm Tưởng, có lẽ ai cũng biết đến 2 ca khúc Mùa Thu Paris và Tiễn Em của nhạc sĩ Phạm Duy, phổ từ bài thơ Chưa Bao Giờ Buồn Thế: Ngôn ngữ trong 2 bài thơ này thật ra không phải mới lạ hay phá cách để nổi tiếng, mà được giới trẻ đón nhận một cách thích thú vì một chi tiết trước đó chưa bao giờ (hoặc hiếm khi) xảy ra, đó là: Một chàng thanh niên Việt Nam du học có người yêu bên Pháp với tóc vàng mắt xanh… hai người yêu nhau và chính những cuộc chia tay trên ga vắng đã thi vị hóa câu chuyện để nó trở thành một mode mới trong đời sống thanh niên thời bấy giờ. Bài thơ như một trang sách mới cùng những con đường lạ lẫm bên trời Tây mở ra cho giới trẻ và đâu đó người đọc cảm thấy phần nào hả hê bù đắp lòng tự ái dân tộc đã bị mất mát khá nhiều dưới gót giày được gọi là khai hóa văn minh của thực dân Pháp. Mùa thu Paris Mùa thu Paris Trời buốt ra đi Hẹn em quán nhỏ Rưng rưng rượu đỏ tràn ly Mùa thu đêm mưa Phố cũ hè xưa Công trường lá đổ Ngóng em kiên khổ phút, giờ Mùa thu âm thầm Bên vườn Lục-Xâm Ngồi quen ghế đá Không em buốt giá từ tâm Mùa thu nơi đâu? Người em mắt nâu Tóc vàng sợi nhỏ Mong em chín đỏ trái sầu Mùa thu Paris Tràn dâng đôi mi Người em gác trọ Sang anh, gót nhỏ thầm thì Mùa thu không lời Son nhạt đôi môi Em buồn trở lại Hờn quên, hối cải cuộc đời Mùa thu! mùa thu Mây trời âm u Yêu người độ lượng Trông em tâm tưởng, giam tù Mùa thu!… Trời ơi! Tình thu! Click để nghe Thái Thanh hát Mùa Thu Paris trước 1975 Đó là nguyên tác bài thơ mang tên Mùa Thu Paris, đã được nhạc sĩ Phạm Duy phổ thành ca khúc cùng tên, nổi tiếng qua giọng hát của các danh ca Thái Thanh, Sĩ Phú. Nhà thơ Cung Trầm Tưởng chia sẻ kỷ niệm về bài thơ này: “Tôi làm những bài thơ về Paris đó là có thật. Lẽ dĩ nhiên khi làm thơ thì mình cũng lý tưởng hóa nó một chút, tất cả về tóc vàng mắt xanh là có thật. Thời đó tôi học ở trường Pháp cứ bị mang tiếng là Tây con, đã sẵn có ngôn ngữ Pháp và văn hóa Pháp thấm nhuần trong người thành ra sang bên đó mình không bị lạ lẫm. Tôi gặp một số mối tình dù rằng không vĩnh viễn nhưng nó đánh giá những kỷ niệm đầu đời của mình”. Kỷ niệm đầu đời cùng các mối tình tóc vàng mắt xanh ấy đã là nguồn cảm hứng cho nhiều bài thơ của Cung Trầm Tưởng vào thời mới lớn. Những chiếc ga nhỏ nằm trơ trọi giữa mùa đông nước Pháp đã từng chứng kiến biết bao cuộc chia tay trước đó, lại một lần nữa nhìn ngắm mối tình dị chủng giữa một chàng trai một đất nước bị trị và một cô gái tóc vàng, đại diện cho văn hóa và nếp sống phương Tây. Hình ảnh Cung Trầm Tưởng khi đi học ở Paris, được “người em tóc vàng” chụp. Ảnh: Jimmy show Từ một trong những lần chia ly đó, nhà thơ Cung Trầm Tưởng đã sáng tác Chưa Bao Giờ Buồn Thế, vốn quen thuộc với khán giả yêu nhạc bằng cái tên khác Tiễn Em – Bài hát do nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc: Lên xe tiễn em đi Chưa bao giờ buồn thế Trời mùa đông Paris Suốt đời làm chia ly Tiễn em về xứ mẹ Anh nói bằng tiếng hôn Không còn gì lâu hơn Một trăm ngày xa cách Ga Lyon đèn vàng Tuyết rơi buồn mênh mang Cầm tay em muốn khóc Nói chi cũng muộn màng Hôn nhau phút này rồi Chia tay nhau tức khắc Khóc đi em. khóc đi em Hỡi người yêu xóm học Để sương thấm bờ đêm Đường anh đi tràn ngập lệ buồn em… Ôi đêm nay Chưa bao giờ buồn thế Trời mùa đông Paris Suốt đời làm chia ly Tàu em đi tuyết phủ Toa anh lạnh gió đầy Làm sao anh không rét Cho ấm mộng đêm nay Và mơ ngon trên khắp nẻo đường rầy ! Trời em mơ có sao Mình anh đêm ở lại Trời mùa đông Paris Không bao giờ có sao Trời mùa đông Paris Chưa bao giờ buồn thế! Click để nghe Sĩ Phú hát Tiễn Em trước 1975 Tám câu đầu tiên của bài hát Tiễn Em được nhạc sĩ Phạm Duy giữ nguyên câu chữ của bài thơ nguyên thủy, không sửa một chữ nào, mô tả cuộc chia ly giữa 2 người dị chủng: Một sinh viên ở miền viễn Đông và một cô gái tóc vàng bản xứ. Họ tiễn nhau trên một sân ga nhỏ nằm trơ trọi giữa mùa đông nước Pháp lạnh lẽo, đó là “ga Lyon đèn vàng” giữa “tuyết rơi buồn mênh mang”. Ga Lyon này không phải là ở thành phố Lyon như nhiều người tưởng, mà có tên chính thức là Paris-Gare-de-Lyon, là một trong sáu ga xe lửa tuyến chính lớn ở Paris – thủ đô nước Pháp. Ga Lyon đèn vàng Cầm tay em muốn khóc… Vì sao ánh đèn sân ga lại màu vàng? Điều này cũng được Cung Trầm Tưởng giải thích, đó là vào một buổi chiều mùa đông Paris lạnh giá, qua làn sương mù lạnh lẽo thì ánh đèn sân ga đã trở thành vàng vọt, gợi hình tượng lãng mạn nhưng cũng thật buồn, buồn như là tâm trạng của đôi tình nhân đang quyến luyến nhau không rời trước giờ phút phân ly. Vì sao họ phải xa nhau, và “tiễn em về xứ mẹ” là xứ nào? Nhà thơ kể lại: “Mùa Ðông ở Paris thời hậu thế chiēn, không khí thường bị ô nhiễm; và phổi nàng không được mạnh, và nàng lại bị suyễn nữa, vì thế bác sĩ khuyên là trong ba tháng mùa Ðông, nàng nên đi về miền Địa Trung Hải để hưởng không khí trong sạch. Ba tháng xa cách, thế nhưng thời đó tuổi trẻ lắm lúc đam mê và cũng hơi cường điệu, tôi có cảm tưởng xa nhau biền biệt, nên mới trải tâm sự thành bài thơ”. Nàng con gái tóc vàng rời Paris tròn 3 tháng để về Marseille, là thành phố miền Nam nhìn ra Địa Trung Hải có nắng ấm, có biển muối mặn, tốt hơn cho sức khỏe của nàng. 3 tháng được được nhà thơ làm tròn thành “100 ngày xa cách”. Click để nghe danh ca Anh Ngọc hát Tiễn Em trước 1975 Hỡi em người xóm học Sương thấm hè phố đêm Trên con đường anh đi Lệ em buồn vương vấn. Tuyết rơi phủ con tầu Trong toa em lạnh đầy Làm sao em không rét Cho ấm mộng đêm nay? “Xóm học” trong đoạn này được tác giả giải thích là khu đại học ở Paris. Họ yêu nhau khi tuổi còn rất trẻ mà thi sĩ Cung Trầm Tưởng nói đó là thời bồng bột. Ông đã theo đuổi một cô gái tóc vàng, và nàng cũng nhiệt thành đáp lại tình cảm, họ thường hẹn nhau ở vườn Lục Xâm (Luxembourg) với công viên ghế đá mà nhà thơ đã nhắc tới trong bài Mùa Thu Paris: Mùa thu âm thầm Bên vườn Lục-Xâm Ngồi quen ghế đá Không em buốt giá từ tâm Mùa thu nơi đâu? Người em mắt nâu Tóc vàng sợi nhỏ Mong em chín đỏ trái sầu Mùa thu Paris Tràn dâng đôi mi Người em gác trọ Sang anh, gót nhỏ thầm thì… Công viên ghế đá ở trong vườn Lục Xâm Hai người cùng là sinh viên, cùng trọ học nơi mà ông gọi là “gác trọ”. Rồi một hôm nàng sang gõ cửa, được ông ghi lại bằng hình ảnh thật nhẹ nhàng: Sang anh, gót nhỏ thầm thì…, thể hiện sự bối rối, thẹn thùng của người thiếu nữ. Click để nghe Thái Thanh hát Mùa Thu Paris trước 1975 Ngoài Mùa Thu Paris và Chưa Bao Giờ Buồn Thế, nhà thơ Cung Trầm Tưởng còn viết tặng cho người yêu tóc vàng bài thơ Kiếp Sau cũng đã được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc. Tác giả kể rằng bài thơ Kiếp Sau ra đời vào thời điểm ông có ý định trở về nước, sắp phải xa người yêu, lần này không phải là tạm thời xa cách như trong Tiễn Em, mà là phải vĩnh viễn rời xa, cho nên ông muốn bù đắp cho nỗi buồn của người yêu: “Bù em một thoáng trời gần, đơm hoa kết mộng cũng ngần ấy thôi! Bù em góp núi chung đồi thiêu nương đốt lá cũng rồi hoang sơ Bù em xuôi có ngàn thơ, vẫn nghe trắc trở bên bờ sông thương Quên thôi, bông sẽ phai hường, mà xưa tiếng gọi nghe dường thiên thu. Non sông bóng mẹ sầu u, mòn trông ngưỡng cửa, chiều lu mái sầu Thôi em xanh mắt bồ câu, vàng tơ sợi nhỏ xin hầu kiếp sau.” Chữ “Bù” trong thơ rất độc đáo và đa nghĩa, nhưng có lẽ vì không hợp với giai điệu nên nhạc sĩ Phạm Duy đổi thành chữ “Đền”. Click để nghe Thái Thanh hát Kiếp Sau trước 1975 Theo tác giả Thụy Khê, chữ “Đền em” nó nũng nịu, Tây hơn, hợp thời hơn, nhưng “Bù em”, mới hiếm, mới Việt. Chữ đền có nghĩa đổi trao, lấy đi rồi đền lại. Còn chữ “bù” chỉ có cho mà thôi, đó là sự “lấp đầy”. Nguyên lý lấp đầy lại rất nữ tính, rất nhục cảm, rất rất Cung Trầm Tưởng. Sau đây xin trích thêm một đoạn phân tích bài thơ, bài hát Kiếp Sau của tác giả Thụy Khê, mà chính nhà thơ Cung Trầm Tưởng cũng khá tương đắc: Nhạc sĩ Phạm Duy có lý khi ông đổi lại là đền em. Ai cũng hiểu. Ở Phạm Duy là ý thức cộng đồng, ý thức dân ca, ở Cung Trầm Tưởng là ý thức biệt dã, ý thức thi ca. Bù em là ngôn ngữ thứ nhất, ngôn ngữ bùa chú khác lạ, không giống ai: Ngôn ngữ vừa được nhà thơ tác tạo. Cả bài thơ có hơi cổ điển, có hồn ca dao. Nhưng không phải ca dao thuần túy mà là ca dao đã hóa thân, cổ điển đã tục lụy. “Thiêu nương đốt lá cũng rồi hoang sơ” Các cụ xưa đâu viết thế. Các cụ môn đăng hộ đối, đâu có thấy bình dân “cũng rồi” ngồi chung chiếu với quý tộc “thiêu nương”. Rồi lại: “Thôi em xanh mắt bồ câu” Ca dao đâu viết thế. Ca dao thường trực tiếp, dễ hiểu: Em thôi, mắt xanh, hay mắt em, thôi xanh… Nên khi gặp thôi em xanh mắt người đọc lạc vào mê đạo. “Mà xưa tiếng gọi nghe dường thiên thu” Toàn thể câu thơ là một bể hoang đường, lạc đất. Tất cả những “cũng rồi”, “mà xưa”, “nghe dường” gieo vào câu thơ ở những chỗ bất ngờ nhất, làm lỗi nhịp, làm đảo thần lục bát, phát sinh một hồi âm mới: Wagner hay Mozart? Phạm Duy hay Văn Cao? Có hết. Tất cả đồng quy ở tiếng gọi thiên thu hay tất cả đều đã hoang sơ? Cung Trầm Tưởng đã xướng lên một thứ cổ dao hiện đại: “Non sông bóng mẹ sầu u Mòn trông ngưỡng cửa, chiều lu mái sầu” Những tiết tố âm nhạc, quá khứ, hiện tại, không gian, thời gian, ẩn hiện, giao tỏa với nhau. Những hình ảnh sáo mòn như “đơm hoa kết mộng”, “sông Thương trắc trở” được hồi sinh trong một kiếp mới, nhờ cách xếp câu, đảo tứ: “Bù em một thoáng trời gần, đơm hoa kết mộng cũng ngần ấy thôi! Bù em góp núi chung đồi thiêu nương đốt lá cũng rồi hoang sơ Bù em xuôi có ngàn thơ, vẫn nghe trắc trở bên bờ sông thương” Những cách treo chữ: cũng rồi, cũng ngần…, buông chữ: bù em, thôi em…, đảo chữ: mòn trông…, hoặc tạo cảnh: chiều lu mái sầu… đều có tính cách phá tán âm thanh lục bát, phá tan nội dung ca dao để tạo ra, về mặt thời gian, một tiếng gọi từ ngàn xưa vọng lại, về mặt âm thanh và tư tưởng, một khúc điệu mới, phong liệm nỗi buồn nguyên thủy, rồi nghiền tán nó ra, rắc vào không gian, gieo vào vũ trụ. Một bài thơ khác nữa là Khoác Kín, cũng là một trong những giá trị độc đáo của thi ca Cung Trầm Tưởng mà Phạm Duy đã phổ nhạc và đổi tên thành Chiều Ðông (Phạm Duy có tài lựa những tuyệt tác của mỗi tác giả để đưa vào cung bậc âm thanh). Khoác Kín cũng là một bài thơ ngắn, nhưng mỗi câu, mỗi chữ đều là những giọt tuyết lệ của thời gian, nhỏ trong không gian tàn tạ: “Chiều đông tuyết lũng âm u bâng khuâng chiều tới tiếp thu trời buồn Nhớ ngày tầu cũng đi luôn, ga thôn trơ nỗi, băng nguồn héo hon” Click để nghe Thái Thanh hát Chiều Đông trước 1975 Bài thơ thứ 5 của Cung Trầm Tưởng được nhạc sĩ Phạm Duy phổ thành bài hát nổi tiếng, không còn là bài tình ca nữa, mà mang đậm chất ma mị đến rợn người, đó bài thơ Tương Phản, thành bài hát mang tên Bên Ni Bên Nớ. Từ một bài thơ được Cung Trầm Tưởng sáng tác khi mới 18 tuổi, qua nét nhạc thượng thừa của Phạm Duy, nó trở thành bài hát vẽ thành một bức tranh màu xám đầy tương phản của đô thành Sài Gòn trong những năm thập niên 1950. Ca khúc này mang đầy chất liêu trai, lời nhạc mông lung nhưng có thể làm ám ảnh người nghe, nội dung bài hát bày ra hai cảnh đời mâu thuẫn, nhưng cũng từ đó đã đề cao tình nhân ái, tinh thần tích cực và an vui hạnh phúc của con người dù có phải ở vào cảnh nghèo túng. Click để nghe Khánh Ly hát Bên Ni Bên Nớ Nguyên tác bài thơ mang tên Tương Phản của thi sĩ Cung Trầm Tưởng, ông sáng tác bài này vào năm 1950, khi ông sống ở vùng Dakao, khi ấy vẫn là một vùng ngoại thành tối tăm, hoang vắng và xơ xác. Dakao ngày ấy đã được nhạc sĩ Lam Phương mô tả là một xóm nghèo “lầy lội qua muôn lối quanh” và “gập ghềnh đường đê tối tăm” như trong bài hát Kiếp Nghèo, hay là “vàng ánh điện câu” với hắt hiu mái lá vách phên như trong bài Xóm Đêm của nhạc sĩ Phạm Đình Chương. Một đêm, từ vùng ngoại ô nhìn về phía đô thành với đèn hoa rực rỡ, thi sĩ Cung Trầm Tưởng nhìn thấy rõ một bức tranh tương phản, giữa một bên là đô thành tráng lệ, một bên là hoang liêu như một bãi tha ma. Từ bài thơ Tương Phản, nhạc sĩ Phạm Duy viết thành ca khúc mang tên Bên Ni Bên Nớ với ca từ khá sát với lời thơ gốc,. Hãy cùng đi vào chi tiết từng lời hát: Đêm chớm ngày tàn, theo tiếng xe về, lăn về viễn phố Em hỡi sương rơi, ngoài song đêm hạ, ôi buồn phố xá Hoang liêu về chết tha ma, tiếng chân gõ guốc xa xa Người xa vắng người, người xa vắng người… “Đêm chớm ngày tàn” thể hiện một bức tranh động, mơ hồ, ở đó có thể nghe cả tiếng xe hối hả về viễn phố cuối ngày. Rồi sương rơi, đêm xuống, bên cạnh những bãi đất dài hoang vu tối tăm và nghĩa trang buồn ở nơi xa ánh đèn phố thị này, chợt nghe tiếng gõ guốc xa xa dồn giã, như là thanh âm của sự sống, là chút giao cảm của đồng loại, là sợi dây mỏng manh và yếu ớt kết nối giữa hoang liêu bãi tha ma hãi hùng này với những những rộn ràng của đô thành rực rỡ. “Người xa vắng người” là để diễn tả những linh cảm của nhà thơ về sự phân hóa của những người trong xã hội đang chớm hình thành. Đó là phân ly giữa người giàu và người nghèo, người sống và người chết… Sự tương phản đó được mô tả rõ nét hơn ở đoạn sau: Em có nghe dồn giã bước ai vất vả bóng ai chập chờn? Hồn ai cô đơn tìm về ấm cúng Em có nghe bi ai tình ai ấp úng Thương ai lạc loài ăn mày xán lạn ngày mai… Hình dáng kẻ ăn mày chập chờn trong đêm tối, như là một bóng ma vật vờ trên lối nhỏ, lên tiếng ấp úng và van xin chút tình thương, lời cầu xin đó bi ai như tiếng của oan hồn. Đó là những hình ảnh ở nơi tối tăm, nghèo nàn nhưng đầy ắp lòng thương cảm ở “bên ni”. Tương phản với “bên nớ”, dù có những truy hoan dài theo chuỗi cười vô tận, nhưng đó là chuỗi cười theo “vạn mảnh ly tan”: Đêm ni ai say đất lở, em ơi có nghe rạn vỡ Vạn mảnh ly tan theo chuỗi cười… Bên tê thành phố tráng lệ Giai nhân nằm khoe lõa thể Bên ni phố vắng ôi lòng ngoại ô Có những sự tương phản ngay cả bên trong vẻ bề ngoài tráng lệ của bên tê, đó là của những trơ trẽn giai nhân khoe lõa thể, những truy hoan lạc bước, và nhìn lại “bên ni phố vắng” thì chỉ thấy một nỗi ngậm ngùi ngân dài… Em có nghe hồ như bước ai gõ nhịp bước ai giang hồ? Hẹn ai bên ni dài in ngõ cũ Em có nghe bên ni lạnh như bên nớ? Phút giây chia lìa, trong lòng vẫn phải đèo mong… Hai tâm linh giam kín lại Bấm đốt ngón tay chờ đợi Chờ ngày con thơ, thơ cũng ra đời Em ơi ngoài kia liếp ngõ Sương rơi ngoài song khép hở Bên trong kín gió ấm ơi là tình. Đoạn cuối của bài hát được nhạc sĩ Phạm Duy “rút gọn” câu chữ cho hợp với nhạc nên ý nghĩa không được thông suốt, thành như là bức tranh trừu tượng, ẩn hiện một cách mơ hồ. Xin chép lại đoạn cuối của nguyên tác từ bài thơ: Em có nghe mơ hồ Bước ai thao thức Gõ nhịp hẹn hò In dài ngõ cụt Bóng ai giang hồ Bên nớ bên ni đêm lạnh cả Lạnh đêm mà chẳng lạnh vuông phòng Em ơi bên trong Dù chia ly đôi phút Đồng mang nhớ đèo mong Hai tâm hồn giam kín Bốn mắt xanh bịn rịn Anh ngồi làm thơ Anh ngồi bấm đốt con thơ ra đời Bên ngoài liếp ngõ sương rơi Bên trong kín gió ấm ơi là tình… Ở đoạn này, vẫn là tương phản với những ly tan của “bên nớ”, ở bên ni có những người nghèo khó, thiếu thốn, mà về tình cảm với nhau thì luôn luôn tràn đầy. Đêm khuya gió lạnh từng cơn, dù là bên ni hay bên nớ cũng đều lạnh cả, nhưng ở bên ni thì “Lạnh đêm mà chẳng lạnh vuông phòng”, và dù “bên ngoài liếp ngỏ sương rơi” thì bên trong vẫn “kín gió ấm ơi là tình”… Hình tượng “bấm đốt ngón tay” được nhà thơ Cung Trầm Tưởng giải thích như sau: “Thời đó tôi cũng có quen một cô thiếu nữ ở Huế và tôi mê lắm, cùng học trung học. Tôi có vợ chồng một anh bạn, cùng học một trường, anh có một đứa con sắp ra đời, và tôi là cha đỡ đầu cho đứa bé đó. Từ cảm hứng đó tôi mới làm bài này, trong có câu “bấm đốt ngón tay chờ đợi/chờ ngày con thơ, thơ ra đời”. Có lẽ cũng vì quen với cô thiếu nữ Huế, nên dù là một người gốc Bắc, thi sĩ dùng những chữ rất Huế trong bài thơ này, như là “bên ni, bên nớ, bên tê”. Ca khúc Bên Ni Bên Nớ đã được ca sĩ Julie Quang hát trước năm 1975, nhưng bài hát này chỉ thành công nhất là với tiếng hát Khánh Ly sau năm 1975. Cô thể hiện bài hát này thành công đến nỗi có lẽ vì vậy mà sau đó không có ca sĩ nào hát lại Bên Ni Bên Nớ nữa. Bài hát có giai điệu mông lung, hoang hoải và đậm không khí liêu trai, hoàn toàn thích hợp với giọng hát liêu trai – Khánh Ly.
(Nguồn tham khảo: Mặc Lâm (RFA), Đông Kha (nhacxua.vn), Thụy Khê


|
Mùa Thu Paris - Nhạc Phạm Duy, Sĩ Phú hát
2025. Merry Christmas & Happy New Year !
🎄 Joyeux Noël à tous et toutes !!! 😘 🎄 Merry Christmas to all of you ! 🎄 CHRISTMAS Ông Bà K1 Nhữ Đình Toán Chúc Giáng sinh này man...
Popular Posts
-
Chuyện khó tin nhưng có thiệt tại xứ sở Việt Cộng ( THÁI NGUYÊN-HÀ NỘI-NAM ĐỊNH-MỘC CHÂU): It is unbelievable but true what is happening in ...
-
mardi 15 décembre 2015 Giã Biệt Sài Gòn - Thúy Nga Paris 10 Giã biệt sài gòn - P1 par VongNgayXanh * * * Giã biệt sài gòn - P2 p...
-
*** Sài Gòn thất thủ *** Komori Yoshihisa Khôi Nguyên dịch Giới thiệu: “Sàigòn thất thủ” là tựa đề một loạt ký sự được đăng tải liên tục s...
-
***~** * ***~*** **~** Live well * **~*** **~** Laugh often **~** **~* * Love with all of your heart ! **~ ** ***~***~*~ ***~*** The Em...
-
-VIDEO : ~ Vietnam Before 1975 ~ -VIDEO : Phim tài liệu về miền Nam Việt Nam trước và sau 1975 -VIDEO : **🌺** SÀI GÒN TR...
-
SVSQ Khoá 1 Học Viện CSQG VNCH — AI - Image to video Then & Now Sliders - Saigoneer Style < > ...
-
Tưởng Niệm Ngày Quốc Hận -PHOTO : Nghĩa Trang Quân Đội VNCH tại Biên Hòa trước 1975 Here rest the soldiers killed in the Red Hot Summer...
-
Mừng Xuân Quý Mão 2023 Chúc Mừng Một năm rực rỡ, tràn ngập ánh sáng lấp lánh. và tất cả mong ước trở thành sự thật Cuộc sống tràn đầy Hạnh ...
-
-Bài T iếng Thu (1939) nổi tiếng của Lưu Trọng Lư (1912-1991) Tiếng Thu * Em không nghe mùa thu Dưới trăng mờ thổn thức? Em không nghe rạ...

.jpg)

.gif)